Tổng cộng:
ĐỊNH NGHĨA:
- Sự phát dục bình thường của nữ giới bình quân là vào khoảng 14, đó là thời kỳ kinh nguyệt phát sinh. Nếu đến ngày có kinh mà không có hoặc có kinh nửa chừng ngưng hẳn và có trạng thái bệnh tật xuất hiện gọi là chứng "Vô kinh" hoặc "Kinh bế".- Chứng "Kinh bế” của con gái chưa có chồng gọi là "Thất nữ kinh bế". Ngoài ra, chứng "Đình kinh" trong thời gian mang thai hoặc thời gian cho con bú, và chứng "Ám kinh" không thuộc trong bài Bế kinh này.
- Y học hiện đại chia ra: Con gái trên 17 tuổi mà vẫn không có kinh gọi là: "Vô kinh nguyên phát", có kinh rồi lại mất kinh gọi là: "Vô kinh thứ phát".
NGUYÊN NHÂN:
- Nguyên nhân chính phát sinh ra bế kinh có thể chia ra làm hai loại Hư và Thực . Hư phần nhiều là âm huyết bất túc, nặng lắm thì khô kiệt làm huyết hải trống rỗng không có huyết để xuống. Thực phân nhiều là do thực tà cách trở làm mạch đạo không thông, kinh huyết không đi xuống được.
- Trên lâm sàng thường phân ra làm 7 thứ là: Huyết khô, huyết ứ, hàn ngưng, nhiệt sốt, đàm thấp, khí uất, tỳ hư. Nguyên nhân huyết hư là do mất máu nhiều, đổ mồ hôi trộm, phòng lao, sinh sản nhiều, tỳ vị yếu, trùng tích, dùng nhiều thứ thuốc xuất hạn công phạt... có thể sinh ra chứng huyết khô kinh bế . Trong sách “Nội kinh" bài "Phúc trung luận" có nói rằng: "Có loại bệnh ngực sườn đầy tức, ăn không được, khi cơn đau thì trước nghe mùi tanh hôi, nôn ra nước trong, trước thổ huyết, mắt quàng, trước sau xuống huyết lai rai gọi là bệnh khô huyết, bệnh này sinh ra vì lúc trẻ tuổi có mất nhiều huyết, như say sưa mà nhập phòng, khí kiệt thì thương can cho nên kinh nguyệt suy kém mà không xuống được. Ngoài ra, sách "Sào thị bệnh nguyên" cũng nói rằng: Trước kỳ kinh nhổ ra huyết và mửa ra máu, hạ huyết gọi là thoát huyết làm cho huyết khô thì kinh nguyệt không có nữa. Tương tự các sách khác như "Đơn khê tâm pháp" ghi rằng: Trụy thai, sinh sản nhiều thương tổn tới huyết. Sách "Cam đam di cảo" ghi rằng: Lúc trẻ bị mửa ra máu, chảy máu cam, băng lậu, huyết khô kiệt ở trong nên kinh không thông.
- Tất cả đó là bệnh nguyên tạo nên bệnh huyết khô. Ngoài ra, gái chưa chồng bị bế kinh cũng do bệnh tật làm cho huyết khí thiếu mà sinh ra bệnh thường thấy rõ trên lâm sàng. Sách "Sản hữu bách vấn" ghi rằng: "Con gái tới tuổi cập kê mà thiên quý ( kinh nguyệt ) chưa đến, ăn uống bình thường chỉ vì khí huyết không đầy đủ cũng thường thấy cần phải dùng thuốc để chữa trị các bệnh, điều hòa được thì kinh tự lưu thông". Trong tình trạng này, chẳng qua chỉ vì khí huyết không đầy đủ, kinh bế do huyết khô có mức độ nặng nhẹ khác nhau. Lại có nhiều trường hợp vi trùng tích lại mà sinh ra khô huyết bế kinh. Còn trường hợp ám kinh, yết kinh, thạch nữ kinh, đều là sinh lý bẩm sinh khác hẳn với chứng kinh bế.
- Sách "Thiên kim yếu phương" ghi rằng: "Huyết mạch trở trệ thì kinh quý bế dứt, đàn bà bế kinh không xuống được, nếu bên trong không khô huyết thì tại sao lâu ngày tích tụ không thông ?" đó là sách nói về chứng huyết ứ sinh ra bế kinh.
- Sách "Phụ nhân lương phương" ghi rằng: "Hàn khí ngừng lại ở huyết thất, huyết ngừng thì kinh không thông" đó là nói về chứng kinh bế do hàn ngưng Sách "Khôn nguyên thị bảo" ghi rằng: "Có khi huyết bị vị hỏa đốt cháy", "Cổ kim y giám" nói tương tự: "Vì đau lâu ngày nên sốt định kỳ nung nấu huyết dịch" đó là nói chứng bế kinh thuộc về đàm nhiệt.
- Sách "Nữ tử thiết yếu" ghi rằng: "Người béo mập bị kinh bế bởi vì có đàm thấp và lớp mỡ chận lấp" đó là chứng bế kinh thuộc về đàm ngăn.
- Sách "Nội kinh" ghi rằng: "Chứng bệnh nhị dương phát từ tâm tỳ vì có điều ẩn khúc không tiết đạt ra được thường sinh ra bế kinh". Tương tự "Cổ kim y giám" ghi rằng: "Vì thất tình thương tâm nên sinh ra kinh bế". Đó là nói về bế kinh vì khí uất. Sách "Nữ khoa tiết yếu" nói rằng: "Tỳ vị không hòa nên ăn uống giảm ít vì thế không thể sinh ra huyết được". Đó là nói về chứng tỳ hư mà sinh ra bế kinh.
PHÉP TRỊ:
- Nguyên tắc trị liệu bệnh này, hư thì bổ huyết là chính kèm theo việc chú trọng tới tỳ vị, hư nặng quá đến nổi huyết khô, thì nên tư dưỡng can thận. Thực thì nên hoạt huyết hành ứ là chính kèm theo điều khí. Nếu ứ trệ quá lâu ngày huyết khô đình ở bên trong, nên công phá, sau khi công thì nên tư bổ hư, tuy nhiên không nên quá dùng các loại khổ hàn hoặc tân táo để dự phòng thương tới vị lao tân dịch và tổn thương tới chính khí.
- Căn cứ vào các nguyên nhân nói trên để phân biệt tình trạng hư nhiệt, hàn nhiệt tùy chứng để trị liệu. Vì huyết khô mà bế kinh phải nên bổ huyết, như sách "Đơn Khê tâm pháp” ghi rằng: "Người gầy khô huyết nên bế kinh dùng thang Tứ vật gia Đào nhân và Hồng hoa". Tương tự, Tiết Lập Trai cũng phát biểu rằng: "Người huyết hư dùng thang Nhân sâm dưỡng vinh". Bế kinh vì huyết ứ phải nên trừ ứ.
- Sách "Vạn bệnh hồi xuân" ghi rằng: "Người đàn bà mạnh mẽ mà bị bế kinh vì huyết đầy khí trệ thì nên công phạt. Tương tự, sách "Đơn Khê tâm pháp” ghi: "Nếu có huyết cục ngưng kết nên hành huyết thông kinh". Nếu vì hàn ngưng mà bế kinh nên ôn thông kinh mạch, như sách "Phụ nhân lương khương” ghi rằng: "Khí hàn ở trong huyết thất, huyết ngưng lại không thông hành được nên dùng "Ôn kinh thang", "Quế chi đào nhân thang".
- Vì nhiệt mà sinh bế kinh nên bổ huyết, theo Tiết Lập Trai: "Vị kinh tích nhiệt dùng gia vị thanh vị tán". Tương tự sách "Vạn thị phụ khoa" cũng ghi rằng: "Chứng kinh bế phát sốt, có cổ ráo, môi khô, mạch thiệt nên dùng Tử vật lương cách tán".
- Vì đàm mà sinh ra bế kinh nên hóa đàm thông kinh, theo sách "Vạn thị phụ khoa" ghi rằng: "Vì đàm mà bế kinh nên dùng Thương sa đạo đàm hoàn làm chủ, lại uống khai uất nhị trấn thang, bỏ Nga truật thêm Chỉ xác.
- Vì khí uất thì nên lý khí giải uất, theo Vạn Mật Trai nói rằng: "Vì khí uất mà bế huyết không xuống được dùng thang Khai uất nhị trấn lại hợp thêm "Tứ chế hương phụ hoàn” tùy theo kinh xuống để dùng liều lượng. Vì tỳ hư nên bổ tỳ vị. Theo Tiết Lập Trai nói rằng: "Tỳ vị hư nhược lâu ngày nên bổ vị khí để tư nhuận hóa nguyên".
- Tương tự sách "Vạn thị phụ khoa” ghi rằng: "Vì tỳ vị tổn thương nên huyết khô không hành được, dùng "Gia giảm bổ trung ích khí thang”
- Tất cả những đoạn trên đều là những phương pháp chính đáng mà cổ nhân đã tùy theo chứng để chữa trị các loại bệnh bế kinh. Tuy nhiên, nguyên nhân vì trùng tích tụ lại sinh ra khô huyết mà bế kinh, cách trị phải nên trừ trùng trước, sau khi hết trùng lại uống thang "Bát trân" để bổ tỳ dưỡng huyết thì kinh nguyệt tự thông. Trong lúc điều trị bệnh bế kinh, thầy thuốc cần nên chú ý rằng bệnh nhân có thai hay không, không nhận định đích xác mà dùng bậy các thứ thuốc hành huyết thông kinh dễ đưa tới trường hợp sẩy thai.
CHỨNG TRỊ:
1. Chứng huyết khô:
- Sắc mặt xanh bạc hơi vàng, ốm, da khô, đau đầu lai rai, tinh thần uể oải, hồi hộp bồn chồn lo sợ, cử động mạnh thì hơi ngắn, đau lưng yếu sức, ăn ít, khó tiêu, đại tiện bón, lưỡi nhạt rêu nẻ mạch hư tế. Kinh nguyệt lúc đầu sắc nhợt và ít rồi tắt dần.
- Nên dùng "Tứ vật bá tử nhân hoàn", "Trạch lan thang", "Điều kinh dưỡng vinh thang", "Tiểu vinh tiển". Nếu huyết khô âm thiếu nên tư dưỡng can thận, tráng thủy để chế hỏa dùng bài "Bổ thận Địa hoàng hoàn".
2. Chứng huyết ứ:
- Sắc mặt xanh xẩm, da khô ráo như hình vảy cá, miệng khô không thích uống nước, thấy bụng ngực đầy không thư thái, thở khò khè như suyễn, bụng dưới căng căng sinh cứng nhức nhối, đè vào thấy đau hơn, đau lan tới hông vế có khi đến vai lưng, tiểu ít, cầu bón, lưỡi sẫm hồng hoặc có chấm tím đỏ, mạch trầm kết mà sắc. Ban đầu kinh đi không thông rồi tắt kinh dần. Nên dùng "Đại hoàng giá trùng hoàn", "Thông ứ tiên", gia Đảo nhan, t sam, Trạch lan, Ngưu tất. Nếu kinh nguyệt đình ứ trệ chưa lâu quá có thể dùng "Hồng hoa đào nhân tiền” là những thang hoạt huyết trục ứ. bệnh lâu ngày cơ thể suy nhược có thể gia thêm những thứ thuốc bổ để phù chính khu tà, hoặc dùng vừa công vừa bổ cùng một lúc.
3. Chứng hàn ngưng:
- Sắc mặt xanh bạc, cứng đau ở gáy, người lạnh, sợ lạnh, mỏi lưng đau bụng, kinh nguyệt tắt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch trầm trì hoặc khẩn. Nên dùng "Ngô thù du thang". Thiên về hàn nên dùng "Ôn kinh thang". Thiên về thấp nên dùng "Đơn khê trị thấp đàm phương". Nếu thấp trọc kết lại cùng với huyết ứ trệ ở trong bào cũng làm bụng dưới căng cứng đau có thể dùng "Gia vị tử vật nhị trần thang" để hóa trọc khử ứ.
4. Chứng nhiệt :
- Mặt vàng, gò má đỏ, bứt rứt trước ngực, đến đêm phát sốt, giấc ngủ không yên nằm trằn trọc, miệng đắng, khô cổ, người gầy gò, đại tiện bón, tiểu đỏ sẻn, lưỡi đỏ sáng, rêu lưỡi khô mỏng, vàng hoặc nứt nẻ từng đường. Mạch huyền tế sác. Kinh đến trước kỳ và ít dần rồi tắt. Nên dùng "Địa hoàng tiển". Nếu vì uất nhiệt thì sắc mặt khô, tinh thần uất ức, đầu xoàng, tai ù, khô cổ, đau hông sườn, ngực bụng sình lên hoặc phát sốt, lưỡi đỏ không có rêu. Mạch hư tế sác hoặc hư huyền. Nên dùng "Nhất quát tiển" làm chủ.
5. Chứng đàm ngăn:
- Phần nhiều cơ thể to béo đẫy đà, sắc mặt cảy vàng, thấy bứt rứt trong ngực, bụng trên sinh căng, ăn ít, đàm nhiều, lâu lâu lại ọe nấc cụt, thích yên lặng, sợ lao nhọc, có nhiều bạch đới, miệng nhạt có nhớt, rêu lưỡi trắng nhờn. Mạch huyền hoạt, kinh thường sai, kinh nhợt mà nhiều rồi tắt dần. Nên dùng thang "Thương sa đạo đàm hoàn", "Hậu phác nhị trần thang".
6. Chứng khí uất:
- Sắc mặt sẫm nhạt xanh bạc, tinh thần uất ức, đau sườn, nhức đầu, tức ngực, ăn ít, ợ hơi nhổ nước chua, sình bụng đau từng chặng, sôi ruột, mỏi lưng, đới hạ, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch huyền sác. Kỳ kinh sai rồi ngừng tắt. Nên dùng "Tứ chế ô phụ hoàn", nếu cơ thể béo tốt là có cả đàm thấp gồm ẩu thổ, hoặc bạch đới dầm dề, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch huyền hoạt, nên dùng thang "Khai uất nhị trần", chứng huyết ứ thiên về khí trệ dùng "Ô dước tán".
7. Chứng tỳ hư:
- Sắc mặt xanh vàng, da phù thũng, tinh thần uể oải, tay chân lạnh ngắt, sức yếu, chóng mặt, hồi hộp sợ sệt, hơi thở ngắn, có khi bụng dưới sưng lớn, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng nhờn hoặc rêu nứt rạn. Mạch hư trì, lượng kinh phần lớn nhợt ít, sai kỳ rồi tắt hẳn, thỉnh thoảng có bạch đới. Muốn trị nên dùng "Gia giảm bổ trung ích khí thang" làm chủ.
- Trên lâm sàng thường phân ra làm 7 thứ là: Huyết khô, huyết ứ, hàn ngưng, nhiệt sốt, đàm thấp, khí uất, tỳ hư. Nguyên nhân huyết hư là do mất máu nhiều, đổ mồ hôi trộm, phòng lao, sinh sản nhiều, tỳ vị yếu, trùng tích, dùng nhiều thứ thuốc xuất hạn công phạt... có thể sinh ra chứng huyết khô kinh bế . Trong sách “Nội kinh" bài "Phúc trung luận" có nói rằng: "Có loại bệnh ngực sườn đầy tức, ăn không được, khi cơn đau thì trước nghe mùi tanh hôi, nôn ra nước trong, trước thổ huyết, mắt quàng, trước sau xuống huyết lai rai gọi là bệnh khô huyết, bệnh này sinh ra vì lúc trẻ tuổi có mất nhiều huyết, như say sưa mà nhập phòng, khí kiệt thì thương can cho nên kinh nguyệt suy kém mà không xuống được. Ngoài ra, sách "Sào thị bệnh nguyên" cũng nói rằng: Trước kỳ kinh nhổ ra huyết và mửa ra máu, hạ huyết gọi là thoát huyết làm cho huyết khô thì kinh nguyệt không có nữa. Tương tự các sách khác như "Đơn khê tâm pháp" ghi rằng: Trụy thai, sinh sản nhiều thương tổn tới huyết. Sách "Cam đam di cảo" ghi rằng: Lúc trẻ bị mửa ra máu, chảy máu cam, băng lậu, huyết khô kiệt ở trong nên kinh không thông.
- Tất cả đó là bệnh nguyên tạo nên bệnh huyết khô. Ngoài ra, gái chưa chồng bị bế kinh cũng do bệnh tật làm cho huyết khí thiếu mà sinh ra bệnh thường thấy rõ trên lâm sàng. Sách "Sản hữu bách vấn" ghi rằng: "Con gái tới tuổi cập kê mà thiên quý ( kinh nguyệt ) chưa đến, ăn uống bình thường chỉ vì khí huyết không đầy đủ cũng thường thấy cần phải dùng thuốc để chữa trị các bệnh, điều hòa được thì kinh tự lưu thông". Trong tình trạng này, chẳng qua chỉ vì khí huyết không đầy đủ, kinh bế do huyết khô có mức độ nặng nhẹ khác nhau. Lại có nhiều trường hợp vi trùng tích lại mà sinh ra khô huyết bế kinh. Còn trường hợp ám kinh, yết kinh, thạch nữ kinh, đều là sinh lý bẩm sinh khác hẳn với chứng kinh bế.
- Sách "Thiên kim yếu phương" ghi rằng: "Huyết mạch trở trệ thì kinh quý bế dứt, đàn bà bế kinh không xuống được, nếu bên trong không khô huyết thì tại sao lâu ngày tích tụ không thông ?" đó là sách nói về chứng huyết ứ sinh ra bế kinh.
- Sách "Phụ nhân lương phương" ghi rằng: "Hàn khí ngừng lại ở huyết thất, huyết ngừng thì kinh không thông" đó là nói về chứng kinh bế do hàn ngưng Sách "Khôn nguyên thị bảo" ghi rằng: "Có khi huyết bị vị hỏa đốt cháy", "Cổ kim y giám" nói tương tự: "Vì đau lâu ngày nên sốt định kỳ nung nấu huyết dịch" đó là nói chứng bế kinh thuộc về đàm nhiệt.
- Sách "Nữ tử thiết yếu" ghi rằng: "Người béo mập bị kinh bế bởi vì có đàm thấp và lớp mỡ chận lấp" đó là chứng bế kinh thuộc về đàm ngăn.
- Sách "Nội kinh" ghi rằng: "Chứng bệnh nhị dương phát từ tâm tỳ vì có điều ẩn khúc không tiết đạt ra được thường sinh ra bế kinh". Tương tự "Cổ kim y giám" ghi rằng: "Vì thất tình thương tâm nên sinh ra kinh bế". Đó là nói về bế kinh vì khí uất. Sách "Nữ khoa tiết yếu" nói rằng: "Tỳ vị không hòa nên ăn uống giảm ít vì thế không thể sinh ra huyết được". Đó là nói về chứng tỳ hư mà sinh ra bế kinh.
PHÉP TRỊ:
- Nguyên tắc trị liệu bệnh này, hư thì bổ huyết là chính kèm theo việc chú trọng tới tỳ vị, hư nặng quá đến nổi huyết khô, thì nên tư dưỡng can thận. Thực thì nên hoạt huyết hành ứ là chính kèm theo điều khí. Nếu ứ trệ quá lâu ngày huyết khô đình ở bên trong, nên công phá, sau khi công thì nên tư bổ hư, tuy nhiên không nên quá dùng các loại khổ hàn hoặc tân táo để dự phòng thương tới vị lao tân dịch và tổn thương tới chính khí.
- Căn cứ vào các nguyên nhân nói trên để phân biệt tình trạng hư nhiệt, hàn nhiệt tùy chứng để trị liệu. Vì huyết khô mà bế kinh phải nên bổ huyết, như sách "Đơn Khê tâm pháp” ghi rằng: "Người gầy khô huyết nên bế kinh dùng thang Tứ vật gia Đào nhân và Hồng hoa". Tương tự, Tiết Lập Trai cũng phát biểu rằng: "Người huyết hư dùng thang Nhân sâm dưỡng vinh". Bế kinh vì huyết ứ phải nên trừ ứ.
- Sách "Vạn bệnh hồi xuân" ghi rằng: "Người đàn bà mạnh mẽ mà bị bế kinh vì huyết đầy khí trệ thì nên công phạt. Tương tự, sách "Đơn Khê tâm pháp” ghi: "Nếu có huyết cục ngưng kết nên hành huyết thông kinh". Nếu vì hàn ngưng mà bế kinh nên ôn thông kinh mạch, như sách "Phụ nhân lương khương” ghi rằng: "Khí hàn ở trong huyết thất, huyết ngưng lại không thông hành được nên dùng "Ôn kinh thang", "Quế chi đào nhân thang".
- Vì nhiệt mà sinh bế kinh nên bổ huyết, theo Tiết Lập Trai: "Vị kinh tích nhiệt dùng gia vị thanh vị tán". Tương tự sách "Vạn thị phụ khoa" cũng ghi rằng: "Chứng kinh bế phát sốt, có cổ ráo, môi khô, mạch thiệt nên dùng Tử vật lương cách tán".
- Vì đàm mà sinh ra bế kinh nên hóa đàm thông kinh, theo sách "Vạn thị phụ khoa" ghi rằng: "Vì đàm mà bế kinh nên dùng Thương sa đạo đàm hoàn làm chủ, lại uống khai uất nhị trấn thang, bỏ Nga truật thêm Chỉ xác.
- Vì khí uất thì nên lý khí giải uất, theo Vạn Mật Trai nói rằng: "Vì khí uất mà bế huyết không xuống được dùng thang Khai uất nhị trấn lại hợp thêm "Tứ chế hương phụ hoàn” tùy theo kinh xuống để dùng liều lượng. Vì tỳ hư nên bổ tỳ vị. Theo Tiết Lập Trai nói rằng: "Tỳ vị hư nhược lâu ngày nên bổ vị khí để tư nhuận hóa nguyên".
- Tương tự sách "Vạn thị phụ khoa” ghi rằng: "Vì tỳ vị tổn thương nên huyết khô không hành được, dùng "Gia giảm bổ trung ích khí thang”
- Tất cả những đoạn trên đều là những phương pháp chính đáng mà cổ nhân đã tùy theo chứng để chữa trị các loại bệnh bế kinh. Tuy nhiên, nguyên nhân vì trùng tích tụ lại sinh ra khô huyết mà bế kinh, cách trị phải nên trừ trùng trước, sau khi hết trùng lại uống thang "Bát trân" để bổ tỳ dưỡng huyết thì kinh nguyệt tự thông. Trong lúc điều trị bệnh bế kinh, thầy thuốc cần nên chú ý rằng bệnh nhân có thai hay không, không nhận định đích xác mà dùng bậy các thứ thuốc hành huyết thông kinh dễ đưa tới trường hợp sẩy thai.
CHỨNG TRỊ:
1. Chứng huyết khô:
- Sắc mặt xanh bạc hơi vàng, ốm, da khô, đau đầu lai rai, tinh thần uể oải, hồi hộp bồn chồn lo sợ, cử động mạnh thì hơi ngắn, đau lưng yếu sức, ăn ít, khó tiêu, đại tiện bón, lưỡi nhạt rêu nẻ mạch hư tế. Kinh nguyệt lúc đầu sắc nhợt và ít rồi tắt dần.
- Nên dùng "Tứ vật bá tử nhân hoàn", "Trạch lan thang", "Điều kinh dưỡng vinh thang", "Tiểu vinh tiển". Nếu huyết khô âm thiếu nên tư dưỡng can thận, tráng thủy để chế hỏa dùng bài "Bổ thận Địa hoàng hoàn".
2. Chứng huyết ứ:
- Sắc mặt xanh xẩm, da khô ráo như hình vảy cá, miệng khô không thích uống nước, thấy bụng ngực đầy không thư thái, thở khò khè như suyễn, bụng dưới căng căng sinh cứng nhức nhối, đè vào thấy đau hơn, đau lan tới hông vế có khi đến vai lưng, tiểu ít, cầu bón, lưỡi sẫm hồng hoặc có chấm tím đỏ, mạch trầm kết mà sắc. Ban đầu kinh đi không thông rồi tắt kinh dần. Nên dùng "Đại hoàng giá trùng hoàn", "Thông ứ tiên", gia Đảo nhan, t sam, Trạch lan, Ngưu tất. Nếu kinh nguyệt đình ứ trệ chưa lâu quá có thể dùng "Hồng hoa đào nhân tiền” là những thang hoạt huyết trục ứ. bệnh lâu ngày cơ thể suy nhược có thể gia thêm những thứ thuốc bổ để phù chính khu tà, hoặc dùng vừa công vừa bổ cùng một lúc.
3. Chứng hàn ngưng:
- Sắc mặt xanh bạc, cứng đau ở gáy, người lạnh, sợ lạnh, mỏi lưng đau bụng, kinh nguyệt tắt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch trầm trì hoặc khẩn. Nên dùng "Ngô thù du thang". Thiên về hàn nên dùng "Ôn kinh thang". Thiên về thấp nên dùng "Đơn khê trị thấp đàm phương". Nếu thấp trọc kết lại cùng với huyết ứ trệ ở trong bào cũng làm bụng dưới căng cứng đau có thể dùng "Gia vị tử vật nhị trần thang" để hóa trọc khử ứ.
4. Chứng nhiệt :
- Mặt vàng, gò má đỏ, bứt rứt trước ngực, đến đêm phát sốt, giấc ngủ không yên nằm trằn trọc, miệng đắng, khô cổ, người gầy gò, đại tiện bón, tiểu đỏ sẻn, lưỡi đỏ sáng, rêu lưỡi khô mỏng, vàng hoặc nứt nẻ từng đường. Mạch huyền tế sác. Kinh đến trước kỳ và ít dần rồi tắt. Nên dùng "Địa hoàng tiển". Nếu vì uất nhiệt thì sắc mặt khô, tinh thần uất ức, đầu xoàng, tai ù, khô cổ, đau hông sườn, ngực bụng sình lên hoặc phát sốt, lưỡi đỏ không có rêu. Mạch hư tế sác hoặc hư huyền. Nên dùng "Nhất quát tiển" làm chủ.
5. Chứng đàm ngăn:
- Phần nhiều cơ thể to béo đẫy đà, sắc mặt cảy vàng, thấy bứt rứt trong ngực, bụng trên sinh căng, ăn ít, đàm nhiều, lâu lâu lại ọe nấc cụt, thích yên lặng, sợ lao nhọc, có nhiều bạch đới, miệng nhạt có nhớt, rêu lưỡi trắng nhờn. Mạch huyền hoạt, kinh thường sai, kinh nhợt mà nhiều rồi tắt dần. Nên dùng thang "Thương sa đạo đàm hoàn", "Hậu phác nhị trần thang".
6. Chứng khí uất:
- Sắc mặt sẫm nhạt xanh bạc, tinh thần uất ức, đau sườn, nhức đầu, tức ngực, ăn ít, ợ hơi nhổ nước chua, sình bụng đau từng chặng, sôi ruột, mỏi lưng, đới hạ, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch huyền sác. Kỳ kinh sai rồi ngừng tắt. Nên dùng "Tứ chế ô phụ hoàn", nếu cơ thể béo tốt là có cả đàm thấp gồm ẩu thổ, hoặc bạch đới dầm dề, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch huyền hoạt, nên dùng thang "Khai uất nhị trần", chứng huyết ứ thiên về khí trệ dùng "Ô dước tán".
7. Chứng tỳ hư:
- Sắc mặt xanh vàng, da phù thũng, tinh thần uể oải, tay chân lạnh ngắt, sức yếu, chóng mặt, hồi hộp sợ sệt, hơi thở ngắn, có khi bụng dưới sưng lớn, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng nhờn hoặc rêu nứt rạn. Mạch hư trì, lượng kinh phần lớn nhợt ít, sai kỳ rồi tắt hẳn, thỉnh thoảng có bạch đới. Muốn trị nên dùng "Gia giảm bổ trung ích khí thang" làm chủ.